Nùng sơn chính khí

Nguyễn Ngọc Tiến| 28/06/2020 08:04

(HNMCT) - Khi thực dân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội năm 1882, người Hà Nội đã cảm khái: “Trời cao biển rộng đất dày/Núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi”. Nhị Hà là sông Hồng, vậy Nùng sơn là núi to hay nhỏ và ở vị trí nào?

Điện Kính Thiên của Hoàng thành Thăng Long được xây trên ngọn núi Nùng xưa. Ảnh: Tư liệu

Khi xây cung ở phía đông thành Đại La, Lý Công Uẩn đã có ý định hoàn thiện các yếu tố phong thủy với mong muốn thành bền vững, nên cho đắp cả núi đất để trấn trước cung, điện hay làm hậu chẩm. Người Việt cổ có tục thờ đa thần nên một quả núi thiên tạo hay nhân tạo đều thiêng. Nếu núi mọc ở chính giữa hoàng thành sẽ được coi là trung tâm, là nơi giao hòa giữa trời và đất.

Vào thời Lý, Hà Nội có nhiều núi nhân tạo xen lẫn với núi thiên tạo. Trong trại Hàng Hoa (nay là vườn Bách Thảo) có núi Sưa. Trên đỉnh ngọn núi này còn có một ngôi đền nhỏ thờ Hắc Đế. Tấm biển trên ngôi đền ghi dòng chữ: “Sưa sơn lăng miếu” (tức là ngôi miếu trên núi Sưa). Sưa là một loài cây gỗ quý, trước đây mọc thành rừng trên ngọn núi này, vì thế mới có tên gọi là Sưa sơn.

Ở đường Hoàng Hoa Thám có núi Voi. Đoạn phía Bắc đường Hùng Vương ngày nay, xưa là núi Khán. Sách Thượng kinh phong vật chí (được cho là của Lê Quý Đôn) viết: “Thượng kinh có núi Nùng ở giữa, trên núi có một chỗ hõm xuống gọi là rốn rồng. Phía Bắc có Tam sơn, phía tây có Thái Hòa, phía Tây Bắc có Khán sơn...”. Đời nhà Lê, vua Lê Thánh Tông thường lên Khán sơn xem duyệt binh vì xung quanh có khoảng rộng đủ chỗ cho binh lính diễu hành. Năm 1673, vua Lê Gia Tông cho dựng chùa trên núi thờ Phật, có cả tượng Lê Thánh Tông.

Thời Tự Đức, Bố chánh Hà Nội cùng với Tổng đốc Hà Ninh cho xây một ngôi đình nhỏ trên núi làm chỗ hội họp hằng tháng cho văn nhân uống rượu làm thơ. Các nhà Nho Hà Nội như Lê Đình Diên, Nguyễn Siêu thường lên đây uống Hoàng hoa tửu vào tết Trùng cửu (9-9 âm lịch). Còn núi Tam sơn phía Bắc thành Hà Nội là nơi Tổng đốc Hoàng Diệu treo cổ tự vẫn khi quân Pháp chiếm thành năm 1882. 

Theo quan niệm của người xưa: “Cao nhất xích vi sơn” (cao một thước cũng là núi), nhưng “Sơn bất tại cao, hữu thần tắc linh” (núi thiêng không bởi cao mà có thần trên đó). Ở Thăng Long, núi Nùng được nói đến nhiều nhất.

Từ thuở Hà Nội còn là ngôi làng nhỏ bên bờ sông Tô Lịch, ở đây đã có một quả núi đất thiên tạo được gọi là Nùng sơn. Trên đỉnh Nùng sơn có một ngôi đền. Đền thờ thần Long Đỗ, tức là thần sông Tô Lịch. Đỉnh Nùng sơn có “lỗ thông hơi”. Trong Hoàng Việt dư địa chí, nhà sử học Phan Huy Chú viết: “Núi Nùng ở giữa thành. Triều Lý định đô lấy núi làm đài chính điện, đến thời Lê là điện Kính Thiên, nay (triều Nguyễn) là điện phía trước hoàng cung. Xưa truyền rằng, giữa núi có một lỗ hổng là nơi thông hơi của hồ, ao và núi, nên gọi là Long Đỗ (rốn rồng)”.

Ngôi làng nhỏ này lớn dần, thành huyện, thành phủ và đến thế kỷ VII - VIII, thần Long Đỗ trở thành “Đô phủ Thành hoàng thần quân”. Khi làng trở thành kinh đô của nước Đại Cồ Việt năm 1010 và Đại Việt năm 1054, thần Long Đỗ thờ ở ngôi đền trên núi Nùng được vua Lý phong là “Quốc đô Định bang Thành hoàng Đại vương”, nghĩa là đền núi Nùng trở thành đình làng và thần Long Đỗ trở thành vị Thành hoàng làng của Hà Nội xưa. 

Khi Lý Công Uẩn xây thành Thăng Long trên nền thành cũ Đại La, ông đã cho xây đền thờ thần Long Đỗ ở phía đông thành. Ngôi đền đó nay là đền Bạch Mã (số 78 phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm). Còn núi Nùng nằm gọn trong Hoàng thành - nơi xưa quan niệm là trục trung tâm giao tiếp giữa trời và nhà vua, được san để xây điện Thiên An (đời Trần gọi là Càn Nguyên, đời Lê là Kính Thiên).

Sách Đại Nam nhất thống chí của nhà Nguyễn chép: “Núi Nùng ở trong thành, có tên nữa là núi Long Đỗ. Lý Thái Tổ đóng kinh đô, dựng chính điện ở trên núi, đời Lê gọi là điện Kính Thiên, bản triều đặt làm hành cung, vẫn gọi theo tên cũ, năm Thiệu Trị thứ ba, đổi gọi là điện Long Thiên, điện Đình ở núi Nùng, có xây bệ cao chín bậc, tả hữu có hai con rồng, dài hơn một trượng, chế từ đời Lý”. Năm 2012, khi khai quật di tích Hoàng thành ở 18 Hoàng Diệu, các nhà khảo cổ đã tìm ra dấu vết của điện Thiên An.

Vua Thành Thái đoán núi Nùng rất cao, có mây bao quanh nên mới viết: “Nùng lĩnh phù vân kim cổ sắc” (nghĩa là mây trên núi Nùng mang màu kim cổ).

Câu “Nùng sơn chính khí” xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX khi thực dân Pháp xâm chiếm Hà Nội khiến khí thiêng cổ trào dâng: “Uất khí Nùng sơn cây muốn cựa/ Thương tâm Nhị thủy sóng tranh xao”...

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Nùng sơn chính khí