Thăng Long còn đó một cửa ô

Bài: Thu Hằng. Ảnh Tư liệu| 09/08/2019 08:56

(NSHN) - Ô Quan Chưởng là biểu tượng của kinh thành xưa, không chỉ mang vẻ đẹp về mặt kiến trúc, mà còn mang ý nghĩa lịch sử của Thủ đô ngàn năm văn hiến.

Từ cầu Long Biên, qua phố Trần Nhật Duật rẽ vào là thấy ngay cổng Ô Quan Chưởng sừng sững, uy nghi. Với người Hà Nội, Ô Quan Chưởng (Ðông Hà Môn) không chỉ là dấu tích cuối cùng của thành lũy bảo vệ kinh thành Thăng Long xưa mà còn là một chứng nhân, ghi dấu những biến thiên của lịch sử.

Ô Quan Chưởng là dấu tích cuối cùng của tòa thành bao quanh Thăng Long - Hà Nội xưa

Nhìn lại lịch sử, vào thời kỳ vua Lê niên hiệu Cảnh Hưng thứ 10 (1749), chúa Trịnh đã cho đắp thành Đại Đô bao quanh Thăng Long để phòng thủ trước sự nổi dậy của Nguyễn Hữu Cầu. Thành ấy có trổ các cửa ngách để dân ra vào, gọi là các cửa ô, trong đó có Ðông Hà Môn. Năm Cảnh Hưng thứ 46 (1785), cửa ô này được tu bổ lớn và đến năm Gia Long thứ 3 (1804) thì được xây lại theo quy cách như ta đang thấy ngày nay.

Đầu tiên, cổng ô này có tên là Đông Hà Môn. Sau này, người Pháp đặt tên mới là Porte Jean Dupuis (cổng Jean Dupuis), nhưng nhân dân ta gọi đây là Ô Quan Chưởng. Sở dĩ nhân dân ta gọi như vậy là vì năm 1873, khi Jean Dupuis dẫn quân Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất, tại cửa ô này, một viên Chưởng cơ và đội quân do ông chỉ huy đã chiến đấu đến người cuối cùng để bảo vệ thành Hà Nội. Người dân thương tiếc ông và các nghĩa sĩ nên đã gọi đây là Ô Quan Chưởng.

Ô Quan Chưởng (1906)

Là một cổng ô được mở ra từ bức thành bảo vệ kinh đô nên cấu tạo của Ô Quan Chưởng khác với những cổng thông thường.

Ô Quan Chưởng gồm 2 tầng, được xây dựng theo kiểu kiến trúc cổng vọng lâu. Cổng có một cửa chính (cao 3m), trên có tháp canh và hai cửa phụ ở hai bên. Tầng 2 có vọng lâu 4 mái uốn cong 4 góc, có lan can bao quanh. Trên tường cửa chính có gắn một tấm bia ghi lệnh của Tổng đốc Hoàng Diệu cấm lính gác nhũng nhiễu dân qua lại cửa ô. Tấm bia này lập năm Tự Đức thứ 34 (1881), trước khi Hoàng Diệu tuẫn tiết theo thành Thăng Long trong đợt Pháp đánh Hà Nội lần thứ hai.

Kháng chiến toàn quốc (1946) bùng nổ, Hà Nội chìm trong khói lửa, nhưng cổng Ô Quan Chưởng gần như không bị phá hoại. Bên thành cổng lỗ chỗ những vết đạn súng trường…

Ô Quan Chưởng (1946)

Qua bao thăng trầm, Ô Quan Chưởng vẫn mang một vẻ đẹp mộc mạc và bình yên, mặc cho Hà Nội đang đổi thay từng ngày.

Trân trọng sự hy sinh của tiền nhân, ngày nay chúng ta vẫn dùng tên cửa Ô Quan Chưởng và xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia để bảo vệ. Trước mặt cổng Ô Quan Chưởng là phố Hàng Nâu (xưa bán củ nâu để nhuộm quần áo), nay cũng được đổi tên thành phố Ô Quan Chưởng.

Nhiều người, khi về thăm phố cổ đều muốn đến ngắm cổng Ô Quan Chưởng cổ kính, oai nghiêm và xem đó là nét duyên đặc trưng của Hà Nội. Họa sĩ Việt kiều Văn Dương Thành cũng vậy. Chị đã vẽ Ô Quan Chưởng trong những thời điểm khác nhau: Dưới nắng xuân, dưới trăng thu, dưới mưa phùn…

Ô Quan Chưởng trong tranh của họa sĩ Văn Dương Thành

“Dấu vết kinh thành xưa đã phai nhạt nhiều nhưng may mắn vẫn còn một Ô Quan Chưởng cổ kính để hoài niệm. Ngày còn thơ bé, tôi thường đến đây chơi. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cửa ô cổ kính vẫn đứng đó, vững chãi, bình thản trước thời gian. Với riêng tôi, một người con xa xứ lâu ngày, giữa bao nhiêu đổi thay của phố phường Hà Nội, sự tồn tại của Ô Quan Chưởng là một điều đáng quý” – chị nói.

Mỗi khi qua Ô Quan Chưởng, hầu như ai cũng lắng lòng khi nhớ về bóng dáng xưa của kinh thành. Ảnh Viết Thành

Không như những di tích khác có khu vực khoanh vùng bảo vệ, tại Ô Quan Chưởng, cuộc sống sôi động thường ngày vẫn diễn ra, xe cộ đi lại tấp nập.

Tỏa đi từ cửa ô này là phố Hàng Chiếu, phố Thanh Hà và phố Đào Duy Từ, con phố nào cũng nức tiếng về ẩm thực. Nào là hàng bánh rán, nào là hàng chả rươi, nào là hàng cháo lòng chần…, nhưng đặc biệt phải kể đến hàng bún ốc nguội dân dã đặc trưng của Hà thành. Du khách ngồi thưởng thức ẩm thực ở đây có cái thú là được ngắm cửa ô cổ kính ở một tầm nhìn rất gần, để tha hồ mường tượng về bóng dáng kinh thành xưa...

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Thăng Long còn đó một cửa ô